Với ba năm trước (tháng 4/2007), Nguyễn Việt H, 17 tuổi thấy đau ngực trái, khó thở và đã đi khám tại 1 bệnh viện ở Hà Nội. Tại đây, Việt H được chẩn đoán: U trung thất và được chỉ định phẫu thuật lấy u. Tuy nhiên, khi tiến hành phẫu thuật, do khối u quá lớn, xâm lấn ngay sát các mạch máu chính nên việc cắt bỏ khối u đã không thể tiến hành. Các bác sỹ chỉ có thể lấy mô bệnh để sinh thiết. Kết quả giải phẫu mô bệnh học cho thấy Nguyễn Việt H bị ung thư tinh hoàn (seminoma) và H được "trả" về nhà
.
Đến giờ, H và gia đình không quên nổi cảm giác bi quan và chán nản, bởi lẽ cơ hội sống không còn.
Sau khi trở về nhà, bệnh cảnh của H trở nên trầm trọng với các triệu chứng đau ngực trái tăng dần và xuất hiện khó thở. Ngày 22 tháng 7 năm 2007, Việt H thấy không thể thở nổi, cảm giác đau tức ngực trái tăng. Gia đình đã đưa Việt H đến Trung Tâm Y học hạt nhân và Ung Bướu - Bệnh viện Bạch Mai.
Qua thăm khám, các bác sỹ thấy bệnh nhân có khối u thành ngực trái kích thước 5x6cm, mật độ mềm, ranh giới không rõ. Tim bị đẩy sang phải (mỏm tim ở cạnh xương ức trái); hội chứng ba giảm toàn bộ phổi trái. Tinh hoàn hai bên đủ, không thấy tổn thương u.
Việt H được chỉ định làm thêm một số xét nghiệm đánh giá tình trạng tổn thương u và tình trạng di căn xa.
Bệnh nhân được chẩn đoán tràn dịch màng phổi trái. Ung thư tinh hoàn biểu hiện tại trung thất, phúc mạc.
Sau cơn mưa trời lại sáng
Với các kết luận về bệnh cảnh, các bác sỹ chỉ định, bệnh nhân cần được điều trị bằng hoá chất. Ngay sau lần điều trị hoá chất đầu tiên, khối u thành ngực của Việt H đã thu nhỏ dần. Sau 20 ngày truyền hoá chất, tổn thương tại thành ngực đã tan.
Xét nghiệm sinh hóa với các xét nghiệm chỉ điểm khối u trở về bình thường: βHCG: 0,158 mU/ml; αFP:2,23 ng/ml; LDH: 331 U/l
Trên phim chụp cắt lớp vi tính lồng ngực: Tổn thương u trung thất đã thu nhỏ kích thước hơn trước, phổi trái đỡ xẹp
Siêu âm ổ bụng: dịch ổ bụng đã hết, không thấy hình ảnh bất thường khác.
Bệnh nhân tiếp tục được điều trị hoá chất 03 đợt (tổng cộng 04 đợt). Sau 04 đợt điều trị hoá chất tổn thương u vùng trung thất đã thu nhỏ nhiều, chỉ còn lại tổn thương xơ hoá sau điều trị.
Xét nghiệm chỉ điểm khối u cho thấy kết quả trong giới hạn bình thường: βHCG: 0,103 mU/ml; αFP:1,26 ng/ml; LDH: 221 U/l
Trong các chu kỳ điều trị hoá chất Việt H có xuất hiện một số tác dụng phụ sau khi truyền hoá chất như buồn nôn, nôn, mệt, ăn uống kém. Tuy nhiên, các tác dụng phụ này ở mức độ nhẹ. Sau khi dùng các thuốc chống nôn, nâng cao thể trạng... các tác dụng phụ này được khống chế tốt.
Bệnh nhân tiếp tục được điều trị xạ trị vào diện tổn thương u ban đầu, liều 40Gy nhằm tiêu diệt nốt những tế bào ung thư còn sót lại, đề phòng tái phát và giúp kéo dài thời gian sống cho bệnh nhân.
.
Đến giờ, H và gia đình không quên nổi cảm giác bi quan và chán nản, bởi lẽ cơ hội sống không còn.
Sau khi trở về nhà, bệnh cảnh của H trở nên trầm trọng với các triệu chứng đau ngực trái tăng dần và xuất hiện khó thở. Ngày 22 tháng 7 năm 2007, Việt H thấy không thể thở nổi, cảm giác đau tức ngực trái tăng. Gia đình đã đưa Việt H đến Trung Tâm Y học hạt nhân và Ung Bướu - Bệnh viện Bạch Mai.
Qua thăm khám, các bác sỹ thấy bệnh nhân có khối u thành ngực trái kích thước 5x6cm, mật độ mềm, ranh giới không rõ. Tim bị đẩy sang phải (mỏm tim ở cạnh xương ức trái); hội chứng ba giảm toàn bộ phổi trái. Tinh hoàn hai bên đủ, không thấy tổn thương u.
Việt H được chỉ định làm thêm một số xét nghiệm đánh giá tình trạng tổn thương u và tình trạng di căn xa.
Bệnh nhân được chẩn đoán tràn dịch màng phổi trái. Ung thư tinh hoàn biểu hiện tại trung thất, phúc mạc.
Sau cơn mưa trời lại sáng
Với các kết luận về bệnh cảnh, các bác sỹ chỉ định, bệnh nhân cần được điều trị bằng hoá chất. Ngay sau lần điều trị hoá chất đầu tiên, khối u thành ngực của Việt H đã thu nhỏ dần. Sau 20 ngày truyền hoá chất, tổn thương tại thành ngực đã tan.
Xét nghiệm sinh hóa với các xét nghiệm chỉ điểm khối u trở về bình thường: βHCG: 0,158 mU/ml; αFP:2,23 ng/ml; LDH: 331 U/l
Trên phim chụp cắt lớp vi tính lồng ngực: Tổn thương u trung thất đã thu nhỏ kích thước hơn trước, phổi trái đỡ xẹp
Siêu âm ổ bụng: dịch ổ bụng đã hết, không thấy hình ảnh bất thường khác.
Bệnh nhân tiếp tục được điều trị hoá chất 03 đợt (tổng cộng 04 đợt). Sau 04 đợt điều trị hoá chất tổn thương u vùng trung thất đã thu nhỏ nhiều, chỉ còn lại tổn thương xơ hoá sau điều trị.
Xét nghiệm chỉ điểm khối u cho thấy kết quả trong giới hạn bình thường: βHCG: 0,103 mU/ml; αFP:1,26 ng/ml; LDH: 221 U/l
Trong các chu kỳ điều trị hoá chất Việt H có xuất hiện một số tác dụng phụ sau khi truyền hoá chất như buồn nôn, nôn, mệt, ăn uống kém. Tuy nhiên, các tác dụng phụ này ở mức độ nhẹ. Sau khi dùng các thuốc chống nôn, nâng cao thể trạng... các tác dụng phụ này được khống chế tốt.
Bệnh nhân tiếp tục được điều trị xạ trị vào diện tổn thương u ban đầu, liều 40Gy nhằm tiêu diệt nốt những tế bào ung thư còn sót lại, đề phòng tái phát và giúp kéo dài thời gian sống cho bệnh nhân.
Tìm hiểu bệnh ung thư tinh hoàn: http://benhvienungbuouhungviet.vn/tim-hieu-benh-ung-thu/ung-thu-tinh-hoan.aspx
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét